Tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu. Bài Bạch Đằng Giang Phú của ông được lưu truyền, là một “áng thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn học yêu nước, một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại các chiến thắng Bạch Đằng vẻ vang, trong lịch sử đấu tranh dành chủ quyền và độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tiểu sử
Trương Hán Siêu, không rõ ngày sinh, quê ở làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).
Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Hưng Đạo, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Làm quan trải 4 đời các vua Trần. Năm1308, ông được vua Trần Anh Tông bổ Hàn lâm học sĩ. Đời Trần Minh Tông giữ chức Hành khiển. Sang đời Trần Hiến Tông năm 1339 làm môn hạ Hữu Ty Lang Trung. Đến đời Trần Dụ Tông năm 1342 đổi sang Tả Ty Lang Trung kiêm Kinh Lược sứ ở Lạng Giang. Thăng Tả Gián Nghị đại phu năm 1345, và năm 1351 làm Tham Tri Chính Sự.
Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này thái bình an lạc. Tháng 11 năm sau, ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua cho truy tặng hàm Thái Bảo, năm 1363 lại truy tặng Thái Phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời xưa.
Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Thời trẻ, ông bài xích, phản đối đạo Phật , nhất là khi thấy các vua quan nhà Trần thích xây chùa hao tốn công quỹ. Nhưng các vua Trần không trách, còn bổ ông làm quản tự cho một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông mới chịu nhìn nhận triết lý thâm sâu và trở lại sùng đạo Phật . Những sáng tác, về cuối đời của ông, cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo.
Sự nghiệp văn học
Bài Bạch Đằng Giang Phú của ông được truyền lưu đời sau, là một “áng thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn học Việt Nam, một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, và có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ:
“Giặc tan muôn thủa thái bình,
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao“
Chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng Giang Phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng sau năm 1301.
Trương Hán Siêu cũng soạn Linh Tế Tháp Ký (bài ký tháp Linh Tế), Quang nghiêm Tự Bi văn (bài văn bia chùa Quang Nghiêm). Hai bài đó có đề cao Nho học và phê phán Phật giáo. Ông và Nguyễn Trung Ngạn hợp soạn bộ Hoàng triều đại điển và Hình thư đặt nền tảng cho chế độ Phong kiến Việt Nam vận hành theo phát luật. Ông còn là một nhà văn hoá, có tầm nhìn du lịch sớm nhất Việt Nam.
Bài thơ “Dục Thúy Sơn khắc thạch” nói về núi Dục Thúy ở Ninh Bình được khắc bên sườn núi, hãy còn bút tích. Dục Thúy Sơn nghĩa là “núi có hình con chim trả đang tắm gội” – tên này do chính ông đặt cho ngọn núi Non Nước ở quê hương ông.
Dịch nghĩa Sắc núi vẫn xanh mượt mà, Người đi chơi sao không về? Giữa dòng sáng ngời bóng tháp, Thượng giới mở cánh cửa hang. Có cách biệt với cuộc đời trôi nổi như ngày nay, Mới biết rõ cái danh hờ trước kia là không đúng, Trời đất ở Ngũ-hồ rộng thênh thang, Hãy tìm lại tảng đá ngồi câu khi trước. |
Dịch thơ (Trần Văn Giáp) Non xanh xanh vẫn như xưa, |
Nhóm bài thơ “Vịnh Hoa Cúc” do Nguyễn Tấn Hưng dịch:
Vịnh hoa cúc (I)
Hoa tươi, năm ngoái ngày này, |
Vịnh hoa cúc (II) Thu nay mưa gió loạn cuồng |
Trước tác
- Hình luật thư
- Hoàng triều đại điển (cùng viết với Nguyễn Trung Ngạn)
Hình sưu tầm
Bậc kỳ tài chính trực
Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT) có đoạn viết về ông như sau:
“Trương Hán Siêu là ông quan văn học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả….”
Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng việc Trương Hán Siêu ít giao du với những bạn bè cùng hàng vì lý do: Những người này trước đây cùng học với ông tại trường của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, khi ông bị Nguyễn Văn Long vu oan phải đào tẩu, thì chính những người bạn này đã hùa nhau công kích kết tội ông. Chuyện này ít ai biết vì ông tha thứ không kể tội họ ra, nhưng không kết tình thân, kể cả với Mạc Đĩnh Chi.
Trần Ích Tắc, em ruột của vua Trần Thánh Tông, là một văn tài xuất chúng nên được vua giao việc mở trường để đào tạo nhân tài cho triều đình. Rất nhiều nhân tài thời bấy giờ kéo về đây xin theo học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đại Phạp… Trương Hán Siêu là học trò giỏi nhất, thường được Trần Ích Tắc giao thay mình dạy lại cho các môn đệ. Nhưng lúc đó Nguyễn Văn Long là trưởng tràng sinh lòng ganh ghét, bày mưu ám sát Trần ích Tắc, rồi vu cho Trương Hán Siêu khiến ông phải bỏ về trốn trên những hang động của vùng núi Ninh Bình. Trần Hưng Đạo nghe danh tiếng, và khi cuộc chiến tranh với quân Nguyên sắp nổ ra, Vương chủ động tìm đến để hỏi ý kiến của Trương Hán Siêu. Ý kiến của Siêu quá chu đáo nên được Vương lắng nghe và cho áp dụng.
Từ đó ông trở thành người tham mưu chính của Trần Hưng Đạo, nhưng dấu mặt khi Trần Ích Tắc còn ở triều đình, vì sợ bị hại. Sau khi Trần Ích Tắc khiếp nhược, phản bội trốn theo quân Nguyên thì Trương Hán Siêu ra mặt công khai làm môn khách của Trần Hưng Đạo, để ngày đêm bàn việc quân. Trương Hán Siêu là người rất giỏi về quân mưu, võ nghệ, văn chương và cả âm nhạc.
Kế hoạch lấy không đánh có, lấy nhu thắng cương, vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều của Hưng Đạo Vương, được Siêu phát triển thành kế sách hoàn hảo và đem phổ biến đến tận làng xã, đồng thời dạy cho dân làng biết tuân thủ và làm theo hiệu lệnh từ trung ương một cách đồng bộ.
Ông rất chính trực, luôn chăm lo việc nước một cách chu đáo, và thường xuyên can gián vua về chính sự. Khi Trương Hán Siêu còn sống, bọn gian thần không dám lộng hành. Đến khi ông mất, rồi Phạm Ngũ Lão cũng mất, thì một mình Chu Văn An không đủ sức đối phó với bọn gian thần mà đành phải cáo quan về dạy học.
Trương Hán Siêu gả con cho các tù trưởng chẳng phải vì ham giàu, mà chính là vì muốn liên kết với bộ tộc giữ biên cương theo chính sách của nhà Trần thời bấy giờ, có chủ trương gả con cho tù trưởng để làm phên giậu bảo vệ biên cương.
Đền thờ Trương Hán Siêu
Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa. Trương Hán Siêu được lập đền thờ tại chân núi Non Nước thuộc công viên Dục Thúy Sơn nằm bên sông Đáy ở thành phố Ninh Bình.
Đền thờ Trương Hán Siêu kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 3 gian Bái Đường và 2 gian Hậu cung, hai tầng mái lợp bằng ngói, các góc có các đầu đao cong vút lên. Nhìn bán diện rìa mái cuộn lên ở hai đầu như hình ảnh một chiếc thuyền rồng ngoạn mục. Trên nóc đền là hai con rồng chầu mặt trăng.
Mặt tiền của đền có tấm đại tự bằng chữ Hán Trương Thăng Phủ Tư. Bái đường có cửa võng, hương án và hai giá ở hai bên cắm bát bửu. Gian cuối của hậu cung có hương án để bài vị của Trương Hán Siêu. Gần đền Trương Hán Siêu, là di tích lịch sử văn hoá chùa Non Nước, nằm ở phía đối diện qua núi Non Nước. Tất cả hợp lại thành một khu văn hóa, lịch sử giữa thành phố Ninh Bình.
Tên của Trương Hán Siêu được đặt cho nhiều đường phố ở: Hà Nội, Hải Phòng, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Ninh Bình, Hải Dương, Huế, Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột…
Đền thờ Trương Hán Siêu ở Non Nước, Ninh Bình
Bạch Đằng Giang Phú (bản dịch – trích)
…….
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ lê gậy chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt* thế cường,
Lưu Cung** chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
———————————————————————-
Chú thích: * Hốt Tất Liệt, tức Kublai Khan, Nguyên Thế Tổ
** Lưu Cung, còn gọi là Lưu Nghiễm, vua Nam Hán
Nguồn: Sưu tầm Internet